Âm nhạc trong Tuồng

Thứ tư - 17/09/2025 08:13
Nghệ thuật sân khấu truyền thống của Việt Nam rất đa dạng về loại hình như: Tuồng (Hát Bội), Chèo, Cải Lương, Bài Chòi, Ca kịch Huế, Ví Dặm… có thể sánh với kịch cổ điển Ôpera (nhạc kịch) của Châu Âu, Kinh Kịch của Trung Quốc, Kabuki của Nhật Bản và đều được gọi là kịch hát dân tộc. Nghệ thuật Tuồng từ lâu đã trở thành một bộ môn sân khấu tiêu biểu, độc đáo của Việt Nam, được đông đảo mọi tầng lớp nhân dân yêu thích và được đánh giá là một loại hình nghệ thuật cổ diển, bác học, có giá trị đặc sắc nhờ sự tổng hoà của nhiều yếu tố như: kịch bản văn học, nghệ thuật diễn xuất, vũ đạo, hóa trang, phục trang ... và một yếu tố rất quan trọng nữa đó chính là âm nhạc bao gồm cả nhạc hát và nhạc đàn (nhạc không lời). Vai trò của Âm nhạc trong Tuồng được đúc kết, lưu truyền trong dân gian như:                       
Nghe dóng trống chầu, đâm đầu mà chạy

Nghe rao trống chiến không khiến cũng đi”.
Trống chầu, trống chiến là các loại nhạc cụ sử dụng nhiều trong đêm diễn, nhưng ngay từ lúc khai chầu (tiếng trống mở đầu buổi diễn), khai trường (bài nhạc mở màn vở diễn) đã thu hút, thôi thúc mọi người tìm đến để thưởng thức. Khi vở diễn bắt đầu mở màn cho đến lúc hạ màn kết thúc thì âm nhạc xuyên suốt, quán xuyến, như chiếc cầu nối liên kết các yếu tố lại với nhau; có bao nhiêu cung bậc cảm xúc của diễn viên, nhân vật, cảnh vật, bao nhiêu làn điệu, bài bản, hát, diễn thì có bấy nhiêu cung bậc của âm nhạc phụ hoạ, điểm tô, góp phần làm cho vở diễn thêm nhiều màu sắc, truyền tải, nâng cánh cho những tích tuồng bay bổng. Âm nhạc Tuồng rất phong phú và đa dạng trong cách xử lý, diễn đạt gồm có âm nhạc không lời và âm nhạc có lời.


Dàn nhạc Tuồng
 
Âm nhạc không lời là sử dụng nhạc cụ trong dàn nhạc (các loại nhạc cụ dân tộc) để tấu những câu nhạc, đoạn nhạc bằng nhiều hình thức như độc tấu, song tấu, hay hoà tấu cả dàn để hỗ trợ, đồng hành với diễn xuất, biểu diễn của diễn viên trên sân khấu theo tình huống của vở diễn, chẳng hạn như cảnh ở triều khi vua nhập điện, bá quan văn võ, binh lính cung chúc thánh quân thì cả dàn nhạc cùng hoà tấu bài “Xàng xê” (còn gọi là bài 3-7), có tiếng trống sấm, tiếng cồng vang to tạo sự uy nghiêm, hoành tráng. Khi thể hiện hành động, tính cách của nhân vật như nhân vật “Hồ Nguyệt Cô” (tuồng Nguyệt Cô Hoá Cáo), tiếng trống mạnh, nhanh dồn dập hòa với tiếng kèn vút cao, giai điệu bi thương đau xót, thể hiện tâm trạng khát vọng tột cùng để mong thoát khỏi lốt cáo trở về với kiếp người. Có những lúc, tiếng trống nhẹ xuống với những âm tờ róc, tịch, tờ rang, tờ rụp diễn tả cảnh “Nguyệt Cô” soi mình trên dòng suối, rồi bùng lên dữ dội tiếng tang tang thể hiện cảnh “Nguyệt Cô” đang quằn quại, đau xót cào xé thân thể. Vì khi không có lời thoại thì  âm nhạc được khai thác, sử dụng tối đa tạo ấn tượng và hiệu quả cao đối với người xem.

       
Nhân vật “Hồ Nguyệt Cô” (tuồng Nguyệt Cô Hoá Cáo)

 
Âm nhạc Tuồng là “người bạn” thân thiết, hỗ trợ đắc lực cho diễn viên tuỳ vào từng tình huống: khi mừng vui hoan hỷ, khi buồn bực, giận hờn, khi yêu, khi ghét ... thể hiện rất phong phú và đa dạng, linh hoạt co giãn, độ lớn nhỏ theo tình tiết diễn xuất của người biểu diễn.Trong tuồng “Trưng Nữ Vương” nhân vật “Trưng Trắc” mê sảng khi nghe tin chồng bị giết, diễn viên thủ vai bê gối lên xuống, diễn tả tâm trạng thì lúc này tiếng kèn cũng hòa theo tấu những nốt nhạc cao ngân dài và rung, đồng cảm với người diễn viên, tạo nên tiếng kèn vừa thương tiếc chồng vừa căm thù giặc rất tinh tế. Những động tác vũ đạo của diễn viên như bộ khai, xiến, lỉa, bắt ngựa, lên ngựa, uống rượu, vuốt râu, chèo thuyền... đều có âm nhạc hỗ trợ, làm nền. Khi người diễn viên diễn động tác phi ngựa tiếng mõ vang lên tờ róc, tờ róc thì khán giả hình dung ra chỉ có một con ngựa, nhưng khi có tiếng trống, mõ, thanh la, xập xoã và nhiều nhạc khí nữa cùng tấu thì như một đoàn quân kỵ binh hùng mạnh đang xông pha ra chiến trường mặc dù trên sân khấu rất ít người. Hay chỉ một cái liếc mắt của một nhân vật đóng vai phản diện, đang mưu toan tạo phản mà sử dụng tiếng kèn đại, tiếng đàn trầm tấu những nốt nhạc đục âm u, rùng rợn cũng làm cho khán giả thấy được tính cách của tên gian thần. Sân khấu Tuồng sử dụng các nguyên tắc cách điệu, ước lệ, tượng trưng cho nên âm nhạc như là trung gian, là chiếc cầu nối các tình huống, các màn, các lớp, cảnh lại với nhau theo trình tự mà không bị gián đoạn, qua đó khán giả có thể thấy được sự chặt chẽ, logic của vở diễn. Chẳng hạn như nhân vật “Trụ Vương” (tuồng Trầm Hương Các) đang ở trong cung điện bàng hoàng khi sự nghiệp tiêu tan rồi lê bước đi về một phương vô định. Lúc này, nhân vật đi một vòng sân khấu, cảnh vật vẫn như cũ, với tiếng trống ầm ầm như tiếng sấm sét, tiếng trống vê như tiếng mưa, tiếng nhị réo rắt diễn tả một chốn heo hút rừng thiêng nước độc cùng với diễn xuất của diễn viên, ngai vàng giờ trở thành tảng đá to trơn trượt, cây rừng gai góc mọc khắp nơi sẽ làm cho người xem hình dung ra phong cảnh bên ngoài cung vua một cách khái quát và đạt được giá trị thẩm mỹ cao.
Về âm nhạc có lời thì âm nhạc được sử dụng đệm cho nói lối, ngâm, vịnh, phú, xướng, thán...Trong đó, đệm cho nói lối là rất quan trọng vì nói lối chiếm phần lớn trong Tuồng, đặc biệt là các vở tuồng truyền thống như: “Sơn Hậu”, “Ngọn lửa Hồng Sơn”, “Hộ sanh đàn”, “Cổ Thành” v.v… Khi người diễn viên biểu diễn, tuỳ vào từng hoàn cảnh mà có câu nhạc uốn, lượn, thêm “hoa lá” của người nhạc công theo đúng giai điệu, cung bậc, không theo khuông nhịp quy định. Ngoài những bài đệm thì âm nhạc trong Tuồng sử dụng những câu rao, dạo theo cách tự do cả hát và nhạc không có nhịp và độ dài, ngắn, nhanh, chậm theo tình cảm diễn xuất của người diễn viên, giúp cho người diễn viên lấy được cung bậc điệu thức một cách chính xác. Có những đoạn diễn viên đi lại tự do để diễn tả tình cảm, tâm trạng nhân vật thì nhạc dạo theo và biến tấu hợp với không gian, thời gian, ngữ cảnh. Các làn điệu trong Tuồng phong phú và đa dạng như: Bạch, Thán, hát Khách, Nam ai, Nam xuân, Nam pha, Tẩu mã... và mỗi làn điệu đều có bài nhạc đệm mang nét đặc trưng riêng. Ví dụ như hát Khách thì có nhạc đánh bài Khách, hát Tẩu có nhạc đánh bài Tẩu, hát Nam ai có nhạc đánh bài Nam ai.... “Âm nhạc trong Tuồng độc đáo, vì không phải có một nét nhạc nào đó rồi lặp đi lặp lại, nó có một phong cách khác, một điệu thức mà khi nằm trong điệu thức đó rồi thì không bao giờ sai. Tiết tấu của chúng ta chồng chất lên nhau, câu hát và câu đàn dính liền với nhau, câu đàn thì khác, câu hát thì khác mà vẫn hài hoà với nhau, bởi nó dính trong một điệu thức, đó là một điều quan trọng trong âm nhạc Tuồng” - Cố GSTS Trần Văn Khê chia sẻ.

                            
  Tuồng “Đào Tam Xuân loạn trào”

   Khi diễn viên nói đến cao trào để bắt đầu hát làn điệu thì có câu báo của trống sau đó dàn nhạc đệm theo “bè tòng”, nghĩa là đánh vòng tròn luân khúc, tiết tấu trống, giai điệu của các nhạc cụ kèn, nhị, sáo, bầu, nguyệt... đan xen nhau không theo lời hát nhưng vẫn ăn khớp giữa hát và nhạc. Chẳng hạn nhân vật Quan Công (tuồng Cổ Thành) hay Đào Tam Xuân (tuồng Đào Tam Xuân loạn trào) truyền lệnh phân binh thì “gài thủ” (trống đánh câu báo) ngay vào hát Khách để diễn viên hát làn điệu “Khách”, dàn nhạc đệm “tòng” đánh đi đánh lại bài “Khách” và có thể thay đổi âm sắc các nhạc cụ, ngón chơi cho phong phú nhưng vẫn giữ giai điệu chính tạo cho người xem sự hứng thú, không bị nhàm chán.
Ngoài ra, trong Tuồng còn có các làn điệu có nhịp như: nhịp Một, nhịp Ba, nhịp Tư, nhịp Lăn… người diễn viên hát theo nhịp tuỳ vào mỗi loại đều có sự hỗ trợ của âm nhạc, có lúc nhạc đánh dạo đầu có nhịp cho diễn viên hát bình thường, có lúc đánh theo nhịp để diễn viên làm động tác vũ đạo, chẳng hạn như trong trích đoạn “ Ông già cõng vợ đi xem hội”có hát nhịp một, diễn viên nói lời thoại đến khi nghe trống báo “cắc tờ rụp cắc” thì hát “nhịp Một” theo lời nhân vật, có lúc diễn viên dừng hát để diễn xuất rồi mới hát tiếp nên âm nhạc hỗ trợ, nâng đỡ, giúp cho diễn viên thể hiện hết được cảm xúc, tính cách nhân vật thủ vai một cách hoàn thiện nhất. Ngoài các làn điệu chính của Tuồng thì còn có những “bài bản” được sử dụng cho các vai phụ như: lính, người hầu, anh hề...người diễn viên sáng tạo trên cơ sở lời thoại hay biến tấu theo các điệu “lý” như lý con sáo, lý quân canh, lý dĩa bánh bò... thường thì các “bài bản” có khúc thức hoàn chỉnh về tiết tấu, nhịp điệu, có câu đoạn, giai điệu phổ nhạc theo lời thơ lục bát, thất ngôn tứ tuyệt hay ca dao dân ca. Khi đó thì âm nhạc đệm theo khuôn khổ nhất định, bám sát vào giai điệu chính như hình thức một ca khúc.


Tuồng “Diễn võ đình”

 Có thể nói, Âm nhạc trong Tuồng có giá trị lớn và quý báu trong kho tàng âm nhạc Việt Nam mà ông cha ta đã gầy dựng và truyền lại cho con cháu. Có đi sâu vào tìm hiểu, nghiên cứu thì mới thấy hết được cái hồn, sự tinh tuý, tầm bác học của một loại hình âm nhạc sân khấu dân tộc. Hơn thế nữa, trong giai đoạn hiện nay, cần thực hiện tốt Nghị quyết số 33-NQ/TW về “xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” nhằm ưu tiên, khuyến khích, động viên những con người tâm huyết và có trình độ chuyên môn trong việc bảo tồn và phát triển âm nhạc truyền thống để hướng khán giả, nhất là thế hệ trẻ hôm nay biết quý trọng, bảo tồn và phát huy những nét đẹp, tinh hoa văn hoá truyền thống của cha ông để lại, góp phần xây dựng nền nghệ thuật sân khấu Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.         

Tác giả bài viết: Bài: Hoàng Dũng; Ảnh: Tư liệu

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây